Vô Thường – Sự thật hiển nhiên nhưng ít ai chịu chấp nhận

Nếu bạn hỏi: "Vô thường là gì?" — câu trả lời ngắn gọn nhất là: Không có gì tồn tại mãi mãi, tất cả đều thay đổi. Từ giọt sương mai long lanh trên lá, đến ánh chiều tà đỏ rực, từ tuổi thanh xuân của một người cho đến những ngọn núi tưởng chừng bất biến… tất cả đều nằm trong vòng sinh – trụ – dị – diệt: sinh ra, tồn tại, thay đổi, và mất đi. Tại sao gọi sự sống là vô thường? Bởi vì chính chúng ta đang thay đổi từng giây. Hơi thở bạn vừa hít vào sẽ phải thở ra. Tế bào trong cơ thể đang liên tục chết đi và tái sinh. Người thân, bạn bè, những mối quan hệ quanh bạn… đều chịu sự chi phối của thời gian, bệnh tật, và biến động. Bạn không thể nắm giữ mãi một khoảnh khắc, dù đó là niềm vui hay là hạnh phúc ngọt ngào nhất. Tại sao gọi mất mát là vô thường? Bởi vì nỗi đau cũng không tồn tại mãi. Khi ta mất một người, một cơ hội, hay một ước mơ… cảm giác đau đớn ban đầu như xé lòng. Nhưng rồi theo thời gian, nó nhạt dần, biến thành kỷ niệm. Vết thương nào rồi cũng liền sẹo, và vết...

"Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi": Ý nghĩa sâu xa trong Pháp cú

nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi: ý nghĩa sâu xa trong pháp cú

Hôm nay, chúng ta cùng trở về một trang truyện đầy cảm hứng trong kho tàng văn học Phật giáo, được lưu lại trong Tích truyện pháp cú, một mẫu chuyện kể về Trưởng lão CakkhuPala, vị tỳ kheo đã sẵn sàng hi sinh đôi mắt thịt của mình để bảo vệ và giữ gìn đôi mắt trí tuệ, cũng chính là giới luật và sự hành thiền kiên trì.

Đây không chỉ là một câu chuyện sử tích về một trong các vị đệ tử xuất sắc của Đức Phật Thích Ca, mà còn là tấm gương của một hành giả Phật giáo dám chọn con đường khó khăn nhất: thà mù đôi mắt, nhưng giữ trọn vẹn chí nguyện giải thoát.

Tựa đề “Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi” trong Phẩm SONG YẾU của quyển TÍCH TRUYỆN PHÁP CÚ - TẬP 1 - Dịch giả Viên Chiếu không chỉ nói đến đôi mắt bằng thịt, mà còn mở ra một tầng nghĩa sâu xa về con mắt của dục vọng, của tham ái - thứ có thể khiến chúng ta lạc hướng, tổn hại chính mình và người khác.

Ngay sau đây, chúng ta hãy cùng nghe tóm lược câu chuyện về ngài CakkhuPala, tìm hiểu sâu hơn về ý nghĩa câu chuyện, sau cùng chiêm nghiệm bài kệ Pháp cú số 1 mà đức Thế Tôn đã thuyết giảng từ sự kiện này.

Mong rằng qua câu chuyện này, dẫu trải qua hàng ngàn năm, vẫn gieo vào lòng chúng ta một hạt giống tỉnh thức.

Kính mời quý vị cùng lắng nghe!

TÓM LƯỢC MẨU CHUYỆN “NẾU CON MẮT NGƯƠI LÀM HẠI NGƯƠI, HÃY MÓC BỎ NÓ ĐI”

Thuở xưa tại thành Xá Vệ có một vị trưởng giả tên là Maha Pala, giàu sang bậc nhất. Một ngày kia, nghe Đức Phật thuyết pháp rành rẽ các pháp theo thứ lớp từng vấn đề trí tuệ, bố thí, giới luật, sự sanh thiên, nghiệp báo, sự ngu si và uế trược của dục lạc, và về phước lành của hạnh xuất gia; ngài bừng tỉnh: “Khi con người từ giã cõi đời sang bên kia thế giới, chẳng có thể đem theo con cái hay tài sản; hơn nữa, cả thân này cũng chẳng đi theo được, vậy sống đời tục gia có lợi gì?”. Và ngài quyết định xuất gia, ngài xin phép gia đình, để lại toàn bộ tài sản và quyền hành cho em trai, xuống tóc xuất gia, trở thành Tỳ-kheo, lấy pháp danh là CakkhuPala.

Dưới sự hướng dẫn và chỉ dạy của Đức Phật, ngài chọn pháp tu thiền dẫn đến quả vị A-la-hán. Ngài cùng 60 vị tỳ-kheo khác đi đến một làng rộng lớn cách thành Xá Vệ khoảng 20 dặm (80 cây số) và trải qua kỳ an cư kiết hạ ở đây. Kể từ ngày đầu hạ, ngài đã phát nguyện: “Chỉ dùng ba oai nghi và sẽ không đặt lưng nằm” trong suốt ba tháng. Sau tháng thứ nhất, mắt của trưởng lão CakkhuPala bắt đầu có dấu hiệu bị bệnh, mờ và chảy nước mắt. Nhưng mặc cho việc thầy thuốc có ra sức khuyên lơn bao nhiêu, ngài cũng không chịu nằm xuống khi thoa thuốc, dù thừa hiểu rằng, phải nằm nghỉ và bôi thuốc mới khỏi bệnh, bằng không sẽ bị mù vĩnh viễn. Nhưng dù là vậy, ngài vẫn không lo sợ và không tán tâm, ngược lại ngày càng tinh tấn hành thiền. Kết quả vào một đêm, ngay khi mắt của ngài mù hẳn, các lậu đồng thời hết sạch, liền đắt được quả vị A-la-hán, an trú trong an lạc của Minh sát tuệ.

[...]

Sáu mươi vị tỳ-kheo đồng tu cùng ngài CakkhuPala cũng tinh tấn đến nổi, sau kỳ an cư, tất cả đều đắc quả A-la-hán. Mùa an cư kết thúc, tất cả phải trở về gặp Phật và tăng đoàn. Do đã mù, lại không muốn làm phiền đến các huynh đệ trong tăng đoàn, ngài Cakkupala đã không đi cùng các huynh đệ trở về, mà ở lại làng một mình. Nên khi biết chuyện, người em trai của ngài tên là Culla Pala sai người cháu trai xuất gia làm Sa-di để dẫn đường cho ngài.

Trên đường đưa đức CakkhuPala trở về thành Xá Vệ, khi vừa ra khỏi làng, chàng Sa-di nghe được tiếng hát của cô gái đang gom củi ở phía xa. Anh ấy vì tiếng hát ấy đã động lòng, bỏ lại trưởng lão ngồi chờ ven đường, còn mình đã phạm tà hạnh với cô gái. Nhưng anh ấy không ngờ, ngài CakkhuPala dù hai mắt đã mù, vẫn thấu tỏ mọi việc và nhất quyết không để cho chàng sa-di đã phạm giới tiếp tục dẫn đường cho mình. Chàng sa-di biết bản thân đã sai và không còn mặt mũi nào, nên bỏ thầy lại và chạy sâu vào trong rừng.

Phẩm hạnh cao quý của ngài CakkhuPala đã cảm động đến ngài Đế Thích, vì thế, Đế Thích quyết định hạ giới để giúp trưởng lão thuận lợi trở về thành Xá Vệ ngay trong chiều hôm ấy.

[...]

Gặp lại người anh trai đã nhiều năm xa cách, người em trai của ngài CakkhuPala không khỏi xúc động. Ông sắp xếp cho ngài CakkhuPala ở trong một căn lều cỏ, và cho hai người nô lệ xuất gia làm đệ tử trưởng lão, cũng để trông nom ngài.

Trưởng lão - một con người giàu nghị lực đã quen kinh hành, vào một đêm nọ, sau cơn mưa, ngài đã lần mò ra trước hiên vào canh năm để đi kinh hành và vô tình giẫm chết rất nhiều côn trùng. Hai tỳ-kheo đệ tử ngài lại không quét dọn sớm, nên đã để cho nhóm du tăng vốn định đến thăm viếng trưởng lão nhìn thấy. Họ đã hiểu lầm, nổi giận và đến gặp Phật để mách về chuyện ấy. Đức Phật đã giải oan cho ngài CakkhuPala rằng: “Này Tỳ-kheo! Người giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh”. Sẵn dịp ấy, ngài cũng kể về chuyện kiếp trước của CakkhuPala - nguyên nhân khiến kiếp này ngài ấy bị mù bởi căn bệnh về mắt vốn chữa khỏi rất dễ dàng.

Trong kiếp quá khứ, ngài CakkhuPala là một thầy thuốc. Có một người phụ nữ bị bệnh về mắt, bà ấy đã tự hứa nếu thầy thuốc chữa khỏi mắt cho bà thì bà và các con bà sẽ làm nô lệ cho ông ta. Nhưng khi mắt được chữa khỏi, người đàn bà ấy vẫn giả vờ mắt vẫn còn đau để không phải làm nô lệ. Vì một phút nổi sân về sự thất hứa của người đàn bà mà thầy thuốc ấy đã chế thuốc độc khiến bà ấy bôi vào mắt lập tức bị mù.

Sau khi kể xong chuyện quá khứ, đức Phật đã đọc bài kệ sau:

Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT

Bạn thấy nhân vật chính trong câu chuyện này - ngài CakkhuPala như thế nào?

Có thể hiểu rằng, không phải chỉ có một mình Đức Phật có thể cắt đứt mọi ràng buộc để tu đạt thành quả, mà có rất nhiều nhân vật khác, trong đó, cũng bao gồm ngài CakkhuPala, sẵn sàng từ bỏ đôi mắt bằng thịt để đạt được quả vị giải thoát.

Thời trẻ, quyết tâm từ bỏ gia sản và sự nghiệp để xuất gia theo Phật: 

Vì sau khi nghe pháp của Phật thuyết, ngài đã hiểu ra dù tạo của cải nhiều đến mấy, khi chết đi cũng không mang theo được. Nên hà cớ gì phải vất vả tạo cho nhiều như thế. Nên ngài quyết định xuất gia để tìm lấy niềm an lạc thật sự, niết bàn tịch tịnh, an vui vĩnh hằng.

Nghiêm túc tu hành dù phải mù mắt: 

Trong quá trình tu hành, ngài bị bệnh ở mắt. Thầy thuốc nhiều lần cố gắng khuyên ngài phải nằm và thoa thuốc mới có hiệu quả. Nhưng ngài nhiều lần tự quán chiếu, quyết định giữ vững hạnh tu của mình cho dù mất đi đôi mắt. Để khiển trách bản thân tán tâm và chấm dứt sự mâu thuẫn giữa việc chữa mắt thì phải nằm - phá bỏ lời thệ nguyện ban đầu và việc tiếp tục tinh tấn giữ hạnh ngồi đủ 3 tháng cho dù có mù mắt, ngài đã đọc bài kệ như sau:

Mắt tai nay đã hỏng rồi,
Cả thân này nữa cũng thôi không còn.
Đó là chuyện mỏi mòn thân ấy,
Palita, sao vẫn tán tâm?

Mắt tai nay đã hết mong,
Cả thân này nữa chẳng trông lâu dài.
Đó là chuyện hoại hư thân ấy,
Palita, sao vẫn tán tâm?

Mắt tai nay đã tiêu tan,
Cả thân này nữa tan hoang còn nào!
Đó là chuyện hư hao thân ấy,
Palita, sao vẫn tán tâm?

nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi - Trưởng lão CakkuPala và ý chí tu hành dõng mãnh

Và sau lần thầy thuốc quyết định từ bỏ việc chữa trị mắt cho ngài, ngài đã đọc lên bài kệ:

Như con bệnh nan y
Y sĩ thôi chữa trị
Chắc chắn gặp tử thần
Palita, sao còn tán tâm?

Điều này nói lên rằng, ngài Palita như không còn gì để mất, cũng không sợ mất thêm gì nữa, thế thì chỉ còn con đường tinh tấn, quyết chí tu hành đến ngày viên mãn. Và sự thật là ngay khi mắt mù hẳn, ngài liền đắc quả A-la-hán.

Dù mắt mù nhưng vẫn biết rõ mọi sự thật:

Sau khi các huynh đệ đồng tu cũng đắc quả vị A-la-hán, kết thúc mùa kiết hạ, tất cả phải trở về gặp Phật và tăng đoàn ở Xá Vệ. Riêng ngài CakkhuPala có một người cháu trai được cử đến dẫn ngài trở về. Nhưng dọc đường, vì người cháu trai Sa-di này đã động tâm, nên đã phạm giới tà hạnh với một cô gái dọc đường. Người cháu nghĩ là ông đã bị mù nên sẽ không biết. Nhưng không ngờ ông lại biết thấu hết mọi việc. Người cháu qua những lời răn dạy của ngài CakkhuPala đã tự xấu hổ và chạy sâu vào rừng, không biết tương lai sẽ ra sao.

Tánh biết - con mắt trí tuệ dù cho mắt thịt đã mù

Qua đó ta có thể hiểu rằng tánh biết, pháp nhãn của Phật có thể chiếu rọi mọi sự vật sự việc, trí tuệ như một ánh sáng của ngọn nến chiếu rọi giữa đêm đen, như ánh nắng chiếu xuyên qua cửa kính giúp thấy rõ mọi bụi bặm, phù du. Không có cặn bã nào, phù du nào mà không trông thấy. Khi đạt được đến cảnh giới đó, thì đâu cần con mắt phàm trần! Nói cách khác, ngài CakkhuPala nhìn sự việc bằng con mắt trí tuệ, chứ không dùng con mắt thịt để nhìn.

Một câu hỏi khác đặt ra là: Nếu ngài Cakkhupāla đã chứng đắc Thánh quả A-la-hán – bậc vô lậu, tâm hoàn toàn thanh tịnh, tại sao ngài vẫn vô tình đạp chết rất nhiều côn trùng khi đi kinh hành? Và điều đó có khiến ngài phạm giới sát sanh và phải trả quả báo hay không?

Đức Phật đã giải thích rằng:

“Một bậc A-la-hán, người đã đoạn tận tất cả các lậu hoặc, không còn khởi lên ý muốn sát hại, không còn tạo tác nghiệp mới, nên không phạm tội cố ý sát sanh. Dẫu cho có gây ra cái chết của chúng sanh do vô tình, tâm của bậc ấy hoàn toàn không còn nhuốm ô nhiễm.”

Nói cách khác, hành động sát sanh chỉ thực sự thành tội khi đủ yếu tố: có ý muốn giết, có đối tượng rõ ràng, có hành động và kết quả chết do hành động đó. Ở đây, ngài Cakkhupāla hoàn toàn không khởi tâm giết hại – ngài chỉ đi kinh hành trong đêm tối, không thấy đường. Vậy nên ngài không phạm tội sát sanh.

Nhưng điều đó có nghĩa ngài không chịu quả báo gì?

Có thể lý giải rằng:

Một vị A-la-hán đã tận diệt hết lậu hoặc, nên không còn tạo nghiệp mới nữa. Nhưng nếu còn thân ngũ uẩn – còn mang xác thịt cõi người – thì vẫn còn “thọ quả” của nghiệp quá khứ.

Việc côn trùng chết dưới chân ngài không phải do cố ý sát sanh, nên không tạo nghiệp ác mới. Nhưng trong quá khứ, do từng tạo nghiệp làm mù người khác, nên nay ngài thọ quả báo mù lòa – đó là nghiệp cũ, không phải nghiệp mới.

Một cách nhìn khác, mang tính nhân văn và từ bi. Dù ngài vô tình đạp chết côn trùng, với lòng từ bi quảng đại và công đức vô lượng của bậc A-la-hán, ta tin rằng ngài cũng có thể hồi hướng, siêu độ cho những chúng sanh nhỏ bé ấy.

Giống như mẫu chuyện kể về Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo:

Một lần, có người muốn thử Đức Thầy, nên cố tình mời ngài ăn món cá linh kho. Ngài vẫn bình thản ăn. Sau đó, ngài ra bên bờ sông, nhẹ nhàng phun số cá ấy xuống nước. Kỳ diệu thay, đàn cá ấy sống lại, bơi lội tung tăng.

Điều này không phải để khuyến khích việc sát sanh, mà để nhắc nhở chúng ta rằng: Với lòng từ bi vô lượng và phước đức lớn, những bậc giác ngộ vẫn có thể “độ sanh” cả chúng sinh nhỏ bé – thậm chí đã chết.

Từ đó, ta tin rằng ngài Cakkhupāla cũng có thể hồi hướng công đức tu hành của mình, giúp những con côn trùng đó thoát khỏi cảnh giới khổ đau.

Còn về các du tăng đã nổi sân khi biết ngài CakkhuPala vô tình đạp chết côn trùng cũng nói lên một thông điệp nhỏ: mọi việc không thể chỉ nhìn bằng mắt thường rồi vội vàng phán xét. Phải quan sát bằng trí tuệ và chánh tư duy. Cũng như không thể kết luận sự việc ngay trước mắt mà cần phải quan sát, theo dõi; theo thời gian, sự thật sẽ dần sáng tỏ.

Vậy do đâu mà ngài CakkhuPāla lại được Đế Thích – vua cõi trời – đích thân hạ thế giúp đỡ?

Không phải ngẫu nhiên mà chư Thiên lại để tâm đến một con người nhỏ bé giữa trần gian. Đó là bởi ngài CakkhuPāla đã sống một đời kiên cố và thanh tịnh, giữ giới đến mức tuyệt đối – dù đối diện với chính cháu ruột của mình, dù bản thân đã mù lòa, dù biết rằng tự mình đi sẽ vô vàn khó khăn. Ngài không động tâm, không thỏa hiệp, không để tình thân khiến mình buông lơi giới luật.

Chính sự kiên định đó, chính sự thanh tịnh của giới đức ấy, đã rung động đến tận tầng trời Đao Lợi. Và Đế Thích, xúc động trước đức hạnh ấy, đã phát một lời nguyện rằng:

“Nếu ta không đến giúp một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài.”

Và thế là Đế Thích liền hóa thân xuống trần, làm một người bạn đường, cầm tay dắt ngài CakkhuPāla đi suốt chặng đường dài, đưa ngài kịp trở về thành Xá-vệ trước hoàng hôn.

Giữ phẩm hạnh cao quý - Quý nhân phù trợ

Chúng ta thử nghĩ mà xem, điều gì khiến một vị vua trời – uy lực bậc nhất chư thiên – lại phát nguyện giúp đỡ một tu sĩ già nua, mù lòa, cô độc? Không phải vì ngài ấy cầu xin, cũng không phải vì ngài ấy cúng tế. Mà chỉ vì ngài có giới đức thanh tịnh tuyệt đối, có một nội lực tinh thần vững như kim cương, không gì lay chuyển.

Và câu chuyện ấy, đến lượt chúng ta, cũng để lại một lời nhắc nhở dịu dàng: Trong đời này, muốn gặp dữ hóa lành, muốn được người tốt, quý nhân nâng đỡ; thì điều đầu tiên, không phải là chỉ biết cầu nguyện suông; mà chính là phải gieo trồng nơi tự thân một tâm ngay thẳng, giữ gìn giới hạnh, sống tử tế và kiên định. Vì người sống chân thật, người giữ tâm thanh tịnh, tự nhiên sẽ phát ra một năng lượng thiện lành, khiến người hiền, chư thiên và cả những người lạ giữa đời cũng muốn đưa tay ra giúp đỡ.

Cuối cùng, chính đức hạnh sẽ chiêu cảm duyên lành. Và cũng giống như ngài CakkhuPāla – người không cầu xin, không than trách, chỉ lặng lẽ giữ trọn giới đức thì Đế Thích đã tự nguyện xuất hiện, hóa giải khó khăn, đưa người vượt qua thử thách.

>>> Click vào đây để nghe đọc full mẫu chuyện. 

PHÂN TÍCH PHÁP CÚ

Sau câu chuyện đầy cảm động về ngài CakkhuPāla, Đức Thế Tôn đã tuyên đọc bài pháp cú đầu tiên trong Kinh Pháp Cú, như một lời nhắc nhở:

"Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo."

Hãy thử cùng nhau quán chiếu từng câu và thấy cách mà nhân-quả vận hành từ kiếp này sang kiếp khác, từ một người xuất gia đến người tại gia, từ ngài CakkhuPāla đến người cháu trai, và cả chúng ta hôm nay.

“Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo.”

Tất cả nghiệp thiện hay bất thiện đều bắt đầu từ một niệm khởi lên trong tâm.

Với ngài CakkhuPāla ở kiếp này: Ngài khởi tâm đại tinh tấn, phát nguyện giữ giới trọn vẹn dù phải trả giá bằng đôi mắt – chính ý nguyện này dẫn đường ngài chứng đắc quả A-la-hán, thành tựu giải thoát. Nhưng nếu nhìn lại kiếp trước của ngài – khi còn là ông thầy thuốc: chỉ một niệm sân hận với người đàn bà thất hứa, khiến ngài cố ý chế thuốc độc, làm mù mắt người ấy. Ý dẫn đầu, nhưng ở kiếp trước, đó lại là ý ác. Và nghiệp quả, dẫu trải qua bao kiếp, vẫn chín muồi: kiếp này ngài bị mù.

Trả nghiệp tiền kiếp

Còn người cháu trai Sa-di: chỉ một niệm khởi dục vọng, một ý nghĩ muốn gần gũi nữ nhân – lập tức kéo theo hành động phạm giới, và dẫn đến kết cục mất đi cơ hội tu hành.

Còn với chúng ta trong đời thường: bao lần chỉ một ý nghĩ xấu, ganh ghét, sân hận... rồi dẫn đến lời nói làm tổn thương người khác, hoặc những hành động ta phải hối tiếc rất lâu.

“Nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động...”

Ý nghĩ xấu như hạt giống đen, gieo xuống đất sẽ trổ ra quả đắng.

Ngài CakkhuPāla ở kiếp trước đã để tâm sân hận dẫn đường, mới tạo nghiệp nặng làm mù người khác.

Người cháu Sa-di để dục niệm dẫn lối, mới phạm giới.

Còn trong kiếp này, ngài CakkhuPāla đã chuyển hóa, giữ ý hoàn toàn thanh tịnh – không còn ý ác, không còn sân si, không còn tham dục. Vì vậy, dù đôi mắt mù, ngài vẫn tự do, tự tại, chứng đắc quả Thánh.

Chúng ta hôm nay cũng vậy: chỉ cần để ý bị nhuốm dục, sân, si, thì dù lời nói rất nhỏ, hành động rất bình thường, cũng gieo ra quả khổ rất thật.

“Khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.”

Nhân quả không mất. Khổ đau đi sau hành động bất thiện như bánh xe lăn theo dấu chân trâu.

  • Kiếp này ngài CakkhuPāla bị mù – đó không phải hình phạt từ ai khác, mà là quả báo của ý ác kiếp trước.
  • Người cháu trai Sa-di: ý niệm xấu khiến phạm giới, quả báo là mất đi phước xuất gia, mất đi cơ hội gần Thầy chứng Thánh.
  • Với chúng ta: ý nghĩ ác đưa ta đến bất an, đổ vỡ, bệnh tật, mất niềm tin nơi người khác.

Tóm lại, một bài pháp cú ngắn nhưng mở ra cả một dòng nhân-quả sống động:

  • Ý nghĩ là gốc của tất cả phước và họa.
  • Kiếp trước, một ý sân si của ngài CakkhuPāla tạo nghiệp ác, kiếp này phải mù.
  • Kiếp này, một ý chí thanh tịnh, tinh tấn giữ giới lại đưa ngài đến chứng đắc A-la-hán.
  • Ý dục vọng khiến người cháu trai phạm giới.
  • Và trong cuộc sống, ý xấu của chúng ta gieo ra quả khổ; ý thiện sẽ dẫn đến bình an.

Đó chính là sức mạnh của ý dẫn đầu các pháp: đưa ta về địa ngục, hoặc mở ra con đường giải thoát.

PHÂN TÍCH TIÊU ĐỀ

Giờ đây, xin cùng dừng lại và nhìn lại tựa đề của câu chuyện: “Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi.”

Thoạt nghe, câu nói này dễ khiến người ta hoài nghi, thậm chí rợn ngợp. Phật pháp vốn dạy từ bi, dạy giữ thân, dạy đạo đức, sao lại khuyên móc bỏ một bộ phận của thân thể? Nhưng khi nhìn sâu hơn, ta mới thấy: đây không chỉ là lời nhắc về đôi mắt thịt – mà còn là lời cảnh tỉnh về con mắt của tham, sân, si trong mỗi người.

Trước hết, xét về nhân – quả:

Ngài CakkhuPāla vốn là một vị trưởng lão tinh tấn, giữ giới vững chắc, nhưng quả báo mù lòa đến từ kiếp xưa. Khi xưa, chỉ vì một niệm sân, ông thầy thuốc ấy đã hại người đàn bà thất hứa bị mù mắt. Nay quả trổ: ngài sanh ra đời bị mù, dù vẫn là bậc Thánh.

Con mắt thịt ở đây, vốn từng nhìn bằng sân hận – nên kết quả phải mù lòa.

Và ngài đã dứt khoát giữ giới đến tận cùng, chấp nhận từ bỏ "con mắt thịt" ấy bằng tinh thần xả bỏ, xả bỏ đến mức sẵn sàng mất nó, chứ nhất quyết không mất giới.

Tiếp theo, là cái nhìn nhiễm sắc trần của cậu Sa-di – người cháu đi theo ngài.

Cậu vì chưa đoạn tận tham ái, để mắt dính mắc vào nữ nhân, sinh lòng dục, dẫn đến phạm giới. Con mắt ở đây, chính là con mắt nhiễm sắc trần, nhìn mà bị vướng mắc, từ đó đọa lạc. Nếu ta không chịu “móc bỏ” cái nhìn tham ái ấy – nghĩa là không chịu rèn luyện tâm, không chịu tu tập – thì chỉ một ánh nhìn thôi cũng đủ kéo ta xa rời con đường tu hành, xa rời chánh pháp.

Còn cái nhìn của những du tăng, khi thấy ngài CakkhuPāla giẫm chết nhiều côn trùng. Họ chỉ thấy bằng con mắt phàm phu, chưa thấy được tâm không cố ý, chưa thấy ngài đã đoạn tận các lậu hoặc, không còn ý sát. Nếu họ nhìn sâu hơn bằng con mắt trí, họ sẽ hiểu: vị A-la-hán không còn tạo nghiệp mới; việc giẫm côn trùng chỉ là quả cũ chín muồi, không phải nghiệp mới. Đây là lời nhắc nhở ta: hãy móc bỏ con mắt phán xét, nông cạn – chỉ nhìn hình tướng, mà không nhìn tâm, không nhìn sự thật sâu xa.

Cái nhìn của người em trai Culla Pāla, khi thấy anh mình xuất gia. Ông khóc lóc, níu kéo, vì chỉ thấy nỗi mất mát trước mắt. Chỉ nhìn bằng con mắt thịt, thấy người thân rời xa đời thường, mà không thấy con đường giải thoát của bậc xuất gia. Nếu ông có thể móc bỏ “con mắt của ái luyến gia đình” – thì sẽ thấy an lạc, thấy niềm vui khi người thân tìm cầu giải thoát.

Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi - Con mắt ái luyến

Ngược lại, có một con mắt rất cần gìn giữ – đó là con mắt trí tuệ, con mắt thanh tịnh. Chính nhờ con mắt ấy, ngài CakkhuPāla mới thấy được người cháu phạm giới, mới dứt khoát giữ giới. Chính nhờ con mắt ấy, ngài chứng quả A-la-hán, đoạn tận lậu hoặc.

Còn chúng ta hôm nay, phần lớn chỉ nhìn bằng con mắt thịt. Thấy những gì đẹp đẽ bên ngoài, sinh tham. Thấy điều trái ý, sinh sân. Thấy lợi ích, sinh si mê. Con mắt thịt ấy dẫn ta đi hết kiếp này sang kiếp khác, chuốc lấy bao khổ đau.

Nên "móc bỏ con mắt làm hại ngươi" ở đây, chính là móc bỏ cái nhìn tham, sân, si. Là biết quay về nhìn bằng trí tuệ, bằng chánh niệm. Biết buông bỏ dính mắc, buông bỏ phán xét cạn cợt, buông bỏ ái luyến, để thấy rõ sự thật vô thường – khổ – vô ngã.

Vậy, tóm lại:

  • Con mắt thịt không hẳn là điều cần móc bỏ; điều cần bỏ là cách ta nhìn bằng tham, sân, si.
  • Móc bỏ tức là xả bỏ, chuyển hóa, để giữ được con mắt trí tuệ, nhìn sâu thấy rõ nhân quả.

Nhìn vào câu chuyện ngài CakkhuPāla, cậu Sa-di, người em trai, các du tăng – ta thấy vô số bài học cho chính mình.

Và đó, chính là tinh thần của tiêu đề có vẻ “đáng sợ” này: "Nếu con mắt ngươi làm hại ngươi, hãy móc bỏ nó đi". Để lại chỉ còn một con mắt: con mắt của tuệ giác và lòng từ.

Kính thưa quý đạo hữu,

Chúng ta vừa cùng nhau bước đi một chặng đường, từ câu chuyện của ngài CakkhuPāla – một bậc Thánh dám từ bỏ con mắt thịt để giữ trọn con mắt giới luật, đến những pháp cú thâm sâu của Đức Thế Tôn, rồi nhìn lại từng nhân vật, từng góc nhìn.

Tất cả như một lời nhắc nhở rằng: Cuộc sống này, điều khiến ta khổ đau không phải là “con mắt” nơi khuôn mặt, mà chính là cái nhìn tham lam, nóng giận, si mê và dính mắc của chính ta. Và điều giúp ta an lạc, bình yên, chính là con mắt trí tuệ, chánh niệm, từ bi – nhìn mọi việc bằng sự thấu hiểu và buông xả.

Sau bài chia sẻ này, mong rằng mỗi người chúng ta sẽ:

Biết dừng lại, tự hỏi: Ta đang nhìn cuộc đời bằng con mắt nào?

Biết “móc bỏ” dần những cái nhìn cạn cợt, ích kỷ, và tập nhìn sâu vào bản chất vô thường, nhân quả, vô ngã.

Biết giữ gìn một con mắt trong sáng để sống trọn vẹn hơn, thiện lành hơn giữa dòng đời còn nhiều thử thách.

Cầu chúc chư vị đạo hữu và quý thính giả: Luôn giữ được một đôi mắt sáng của từ bi và trí tuệ. Biết thấy rõ nhân quả để tránh điều lỗi lầm. Biết nhìn người khác bằng tình thương thay vì phán xét. Và biết nhìn chính mình với sự chân thật và bao dung.

Nguyện tất cả chúng ta, trong từng hơi thở, từng bước chân, đều bước gần hơn đến con đường giải thoát và an lạc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nhận xét